Mùa bão Đại Tây Dương 2017, 2018, 2019, 2020, 2021
Mùa bão Đại Tây Dương 2019 là một sự kiện mà theo đó, các xoáy thuận nhiệt đới/cận nhiệt đới hình thành ở Đại Tây Dương, phía Bắc xích đạo trong năm 2019. Hằng năm mùa bão chủ yếu diễn ra từ khoảng tháng 6 đến tháng 11, trong đó các xoáy thuận nhiệt đới tập trung nhiều nhất vào tháng 9 do môi trường rất thuận lợi như nhiệt độ nước biển nóng nhất trong năm, gió cắt yếu... Có rất ít xoáy thuận nhiệt đới hình thành trong khoảng thời gian từ tháng 12 đến tháng 5 tại đây do môi trường bất lợi để bão có thể phát triển. Mùa bão năm 2019 chính thức bắt đầu bằng sự hình thành của cơn bão cận nhiệt đới Andrea vào ngày 20 tháng 5, đánh dấu năm thứ năm liên tiếp một cơn bão nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới phát triển trước khi bắt đầu mùa chính thức, phá vỡ kỷ lục bốn năm trước đó được thiết lập từ năm 1951 đến 1954. Đây cũng là năm thứ hai liên tiếp không có cơn bão nào hình thành trong tháng Sáu.
Dự báo mùa bão
Tóm tắt mùa bão
Các hệ thống xoáy thuận nhiệt đới
Bão Andrea
Bão cận nhiệt đới (SSHWS)
Thời gian tồn tại
20 tháng 5 – 21 tháng 5
Cường độ cực đại
40 mph (65 km/h) (1-min) 1006 mbar (hPa)
Hình thành và phát triển
Vào ngày 17 tháng 5 năm 2019, Trung tâm Bão quốc gia Hoa Kỳ (NHC) đã bắt đầu dự báo sự hình thành của một vùng áp thấp phía nam Bermuda, nơi có khả năng phát triển thành một cơn bão nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới.[1]
Trở thành bão cận nhiệt đới
Ngày hôm sau, tức 18 tháng 5, một khu vực rộng lớn và kéo dài của những đám mây và giông bão đã phát triển tốt ở phía đông của Bahamas. Sự xáo trộn dần dần được tổ chức trong hai ngày tiếp theo khi nó di chuyển về phía tây và sau đó về phía bắc, mặc dù nó vẫn thiếu một lưu thông được xác định rõ. Tuy nhiên, một chuyến bay do thám của Không quân vào cuối ngày 20 tháng 5 đã tiết lộ rằng cơn bão có một trung tâm được xác định rõ ràng với sức gió mạnh, do có liên quan đến một mức độ thấp hơn về phía tây, dẫn đến việc phân loại hệ thống là Bão cận nhiệt đới Andrea lúc 22:30 UTC ngày hôm đó. Ngay sau đó, Andrea đạt đến cường độ cực đại.[2][3]
Suy yếu và tan
Cơn bão đó không thể tồn tại được lâu, vì cơn bão gặp không khí khô từ phía nam, cũng như gió đứt mạnh từ phía nam. Những điều kiện thù địch này đã khiến cho sự đối lưu của Andrea tan biến và cơn bão đã suy yếu thành một vùng thấp vào sáng sớm ngày hôm sau. Vùng thấp tiếp tục đi về phía đông bắc và tan dần.[3][4]
Bão Barry
Bão cấp 1 (SSHWS)
Thời gian tồn tại
11 tháng 7 – 15 tháng 7
Cường độ cực đại
75 mph (120 km/h) (1-min) 991 mbar (hPa)
Áp thấp nhiệt đới 03-L
Áp thấp nhiệt đới (SSHWS)
Thời gian tồn tại
22 tháng 7 – 23 tháng 7
Cường độ cực đại
35 mph (55 km/h) (1-min) 1012 mbar (hPa)
Bão Chantal
Bão nhiệt đới (SSHWS)
Thời gian tồn tại
21 tháng 8 – 24 tháng 8
Cường độ cực đại
40 mph (65 km/h) (1-min) 1010 mbar (hPa)
Bão Dorian
Bão cấp 5 (SSHWS)
Thời gian tồn tại
24 tháng 8 – 7 tháng 9
Cường độ cực đại
185 mph (295 km/h) (1-min) 910 mbar (hPa)
Bão Erin
Bão nhiệt đới (SSHWS)
Thời gian tồn tại
26 tháng 8 – 29 tháng 8
Cường độ cực đại
40 mph (65 km/h) (1-min) 1005 mbar (hPa)
Bão Fernand
Bão nhiệt đới (SSHWS)
Thời gian tồn tại
3 tháng 9 – 5 tháng 9
Cường độ cực đại
50 mph (85 km/h) (1-min) 1000 mbar (hPa)
Bão Gabrielle
Bão nhiệt đới (SSHWS)
Thời gian tồn tại
3 tháng 9 – 10 tháng 9
Cường độ cực đại
65 mph (100 km/h) (1-min) 995 mbar (hPa)
Bão Humberto
Bão cấp 3 (SSHWS)
Thời gian tồn tại
13 tháng 9 – 20 tháng 9
Cường độ cực đại
125 mph (205 km/h) (1-min) 951 mbar (hPa)
Bão Jerry
Bão cấp 2 (SSHWS)
Thời gian tồn tại
17 tháng 9 – 25 tháng 9
Cường độ cực đại
105 mph (165 km/h) (1-min) 976 mbar (hPa)
Bão Imelda
Bão nhiệt đới (SSHWS)
Thời gian tồn tại
17 tháng 9 – 19 tháng 9
Cường độ cực đại
40 mph (65 km/h) (1-min) 1005 mbar (hPa)
Bão Karen
Bão nhiệt đới (SSHWS)
Thời gian tồn tại
22 tháng 9 – 27 tháng 9
Cường độ cực đại
45 mph (75 km/h) (1-min) 1002 mbar (hPa)
Bão Lozenro
Bão cấp 5 (SSHWS)
Thời gian tồn tại
23 tháng 9 – 02 tháng 10
Cường độ cực đại
160 mph (260 km/h) (1-min) 925 mbar (hPa)
Bão Melissa
Bão nhiệt đới (SSHWS)
Thời gian tồn tại
11 tháng 10 – 14 tháng 10
Cường độ cực đại
65 mph (100 km/h) (1-min) 995 mbar (hPa)
Áp thấp nhiệt đới 15-L
Áp thấp nhiệt đới (SSHWS)
Thời gian tồn tại
14 tháng 10 – 16 tháng 10
Cường độ cực đại
35 mph (55 km/h) (1-min) 1006 mbar (hPa)
Bão Nestor
Bão nhiệt đới (SSHWS)
Thời gian tồn tại
18 tháng 10 – 19 tháng 10
Cường độ cực đại
60 mph (95 km/h) (1-min) 996 mbar (hPa)
Bão Olga
Bão nhiệt đới (SSHWS)
Thời gian tồn tại
25 tháng 10 – 26 tháng 10
Cường độ cực đại
50 mph (85 km/h) (1-min) 998 mbar (hPa)
Bão Pablo
Bão cấp 1 (SSHWS)
Thời gian tồn tại
24 tháng 10 – 29 tháng 10
Cường độ cực đại
75 mph (120 km/h) (1-min) 984 mbar (hPa)
Bão Rebekah
Bão cận nhiệt đới (SSHWS)
Thời gian tồn tại
30 Tháng 10 – 01 Tháng 11
Cường độ cực đại
50 mph (85 km/h) (1-min) 982 mbar (hPa)
Bão Sebastien
Bão nhiệt đới (SSHWS)
Thời gian tồn tại
19 Tháng 11 – 24 Tháng 11
Cường độ cực đại
70 mph (110 km/h) (1-min) 991 mbar (hPa)
Mùa bão và tên bão
Tóm tắt mùa bão
Danh sách các tên sau đây sẽ được sử dụng cho các cơn bão được đặt tên hình thành ở Bắc Đại Tây Dương vào năm 2019. Các tên bị khai tử, nếu có, sẽ được Tổ chức Khí tượng Thế giới công bố vào mùa xuân năm 2020. Các tên không được rút khỏi danh sách sẽ được sử dụng lại trong mùa bão năm 2025. Đây là cùng một danh sách được sử dụng trong mùa bão năm 2013, ngoại trừ cái tên Ingrid.
Andrea
Barry
Chantal
Dorian
Erin
Fernand
Gabriete
Humberto
Imelda
Jerry
Karen
Lozenro
Melissa
Nestor
Olga
Pablo
Rebekah
Sebastien
Tanya (chưa sử dụng)
Van (chưa sử dụng)
Wendy (chưa sử dụng)
Tóm tắt mùa bão
Đây là bảng của tất cả các cơn bão đã hình thành trong mùa bão năm 2019 ở Đại Tây Dương. Nó bao gồm tên, ngày tháng, sức gió, áp suất, khu vực đổ bộ, thiệt hại và số người chết được biểu thị bằng chữ in đậm. Cái chết trong ngoặc đơn thường là bổ sung hoặc gián tiếp (một ví dụ về cái chết gián tiếp là một tai nạn giao thông), nhưng vẫn sẽ liên quan đến cơn bão đó. Thiệt hại và tử vong bao gồm tổng số người bị tai nạn, sóng hoặc lũ lụt... và tất cả các con số thiệt hại là vào năm 2019 được tính bằng USD
^ abAndrew S. Latto (6 tháng 8 năm 2019). Tropical Cyclone Report: Subtropical Storm Andrea (PDF) (Bản báo cáo). Miami, Florida: National Hurricane Center. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2019.
^“Post-Tropical Cyclone ANDREA”. www.nhc.noaa.gov. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2021.
^Adams, Char (ngày 15 tháng 7 năm 2019). “Good Samaritans Form Human Chain to Rescue Swimmers from Rip Current in Florida”. PEOPLE.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2019.
^Matthew Lerner (ngày 19 tháng 7 năm 2019). Hurricane Barry loss estimates reach $900M (Bản báo cáo). Business Insurance. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2019.